THÁNH AUGUSTIN TRÊN ĐƯỜNG TÌM KIẾM CHÂN LÝ

             Theo như lời rao giảng của thánh Phao Lô  cho dân thành Athen ( Hy Lạp ), con người được tạo dựng là để cho việc tìm kiếm Thiên Chúa: “ Ớ người  Athen, tôi thấy phàm việc gì  các ông cũng kính sợ quỷ thần quá chừng ! Vì khi tôi  dạo xem những  vật các ông  phụng thờ  thì thấy có một bàn thờ đề rằng: Thần Chưa Biết. Vậy đấng các ông  chưa biết mà kính thờ đó  là đấng tôi đang rao giảng cho các ông đây, ĐCT đã dựng  nên thế giới và mọi vật trong đó là Chúa của trời đất, chẳng ngự tại đền thờ bởi tay người ta làm  đâu ? Cũng chẳng  dùng tay người ta hầu việc Ngài. Dường như có  cần đến sự gì vì chính Ngài  ban sự sống, hơi thở và mọi sự cho mọi loài. Ngài do một người  mà làm nên mọi dân tộc  trong loài người để ở khắp mặt đất, định niên hạn  và cương giới cho chỗ ở của họ cốt để họ tìm kiếm ĐCT hầu mong tìm được Ngài  dẫu Ngài chẳng ở xa mỗi một người trong chúng ta. Vì trong Ngài, chúng ta sống động  và tồn tại như một vài thi nhân của các ông  đã vịnh rằng: Chúng tôi cũng là dòng dõi của Ngài. Vậy các ông  đã là dòng dõi của ĐCT  thì chớ nên tưởng rằng thần tánh  của ĐCT giống như vàng bạc  hay là đá bởi nghệ thuật  và tưởng tượng  của người ta  chạm trổ nên” ( Cv 17, 22 -29 ).

Thiên Chúa cũng gọi là  Đấng Tạo Hóa  đã tạo dựng con người với mục đích  để họ tìm kiếm Ngài  nhưng  với thánh  Augustin, việc tìm kiếm ấy nếu được hiểu như là việc kêu cầu thì  sao có thể  được ?: “ Nhưng con sẽ kêu cầu Chúa  là Thiên Chúa và là Chúa của con làm sao được ? Vì kêu cầu Người  tức là mời Người ngự vào trong lòng con ? Nhưng trong lòng con  có nơi nào để Chúa ngự đến  ? Chúa là Đấng đã tạo dựng trời và đất. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, trong mình con  có cái gì để chứa được Chúa ?  Chớ gì trời  và đất  mà Chúa đã tạo dựng  và trong đó Chúa đã dựng nên con  có chứa đựng được Chúa không ? Hay là chẳng có  vật nào  hiện hữu  mà không bởi Chúa, nên mọi vật  hiện hữu đều chứa đựng Chúa chăng ?  Vậy  thì chính con  cũng  được hiện hữu  thì tại sao  con còn  kêu xin Chúa  ngự vào lòng con  vì con sẽ không được hiện hữu  nếu Chúa không ở trong con ? Con chưa ở âm ty mà Chúa đã  ở đó rồi vì: Tôi có xuống âm ty cũng sẽ thấy Người” ( Tự Thuật ).

Đoạn văn tuy khó hiểu nhưng chứa đựng  triết lý rất mực  sâu xa  về Hiện Hữu cũng gọi là sống là tồn tại. Với thánh Augustin, đây  chính là kết quả việc khám phá nội tâm  mà từ trước tới nay  chưa từng có đúng  như nhận định  của  Karl Jaspers ( 1883 – 1969  ) một  triết gia  hiện sinh: “ Ở đây thấy muôn vàn kiểu nói bất hủ về đời sống tâm linh, ra như  những gì  thuộc tâm linh sâu kín đã được  diễn tả  thành ngôn ngữ linh động. Thực vậy, đây là  một chân lý về nội tâm được suy tư  rất sâu xa và rất thú vị mà triết học xưa  chưa hề biết đến” ( Lê Tôn Nghiêm – LSTHTP Q.II ).

Thật ra không phải triết học…xưa mà  nay cũng vậy, chưa từng có triết gia hay thần học gia nào  trình bày vấn đề nội tâm  vừa sâu  sắc  lại  vừa  thú vị như vị thánh tiến sĩ, giám mục này. Sở dĩ vấn đề nội tâm  được  trình bày cách…thú vị  bởi vì nó phản ảnh  cuộc đời của một con người  đã  được  ơn  trở lại sau  cuộc hành trình  tìm kiếm  tích cực và lâu dài. Tuy nhiên cũng  với  Ơn Trở Lại của vị thánh  ấy  đã đặt ra cho chúng ta một vấn đề hết sức  quan trọng có liên quan đến việc giải nghĩa Kinh Thánh.

Để  hiểu tại sao ơn trở lại của thánh Augustin cũng như của  mọi người  khác  lại  có liên quan đến việc giải nghĩa Kinh Thánh, chúng ta cần  nên nhớ việc trở lại hay còn gọi là trở về ấy là Về với Đấng Cha  nội tại  ẩn giấu ở nơi  mỗi người. Đang khi đó việc Trở Lại ấy sẽ không có cách chi thực hiện  với việc giải nghĩa Kinh Thánh theo nghĩa mặt chữ ( Sens Litteral )  của thần học về  Đấng Tạo Hóa mà thực chất  đó chỉ là  Thiên Chúa  của quan niệm. Lại nữa, cũng chính với việc giải nghĩa Kinh Thánh theo nghĩa mặt chữ  của thần học  như thế  mà đã  tạo nên  tấn bi kịch lớn lao cho thế giới Tây Phương khi người ta tuyên bố…cái chết của Thượng Đế?

I/-  Tấn bi kịch của Phương Tây sau tuyên bố cái chết của Thiên Chúa 

Sự thực thì Ky Tô Giáo không có triết học, chỉ có thần học ( Théologie ) theo như định nghĩa của Kinh Viện Học: “ Triết học là khoa học về vạn vật. Lấy những nguyên nhân tối cao để giải nghĩa chúng” (La philosophie est la science des choses par leures causes suprêmes ). Nguyên Nhân Tối Cao ở đây chính là Đấng Tạo Hóa  và như đã biết Đấng Tạo Hóa chỉ là một khái niệm do việc giải nghĩa Kinh Thánh theo nghĩa mặt chữ ! Lấy  Nguyên Nhân Tối Cao tức khái niệm để giải nghĩa sự phát sinh và tồn tại của vạn vật, người ta gọi đó là Siêu Hình Học ( Me’taphysic ).

Siêu Hình Học theo nghĩa hẹp thường được hiểu như là môn học của phương tây Ki Tô Giáo. Còn  theo nghĩa rộng, đó chính là Hình Nhi Thượng Học của đông phương. Hình Nhi Thượng Học của Trung Hoa bàn về Lý Thái Cực. Còn của Ấn Độ Giáo  bàn về Brahman. Dù  với cách hiểu nào  đi nữa  thì mục đích cũng là để truy nguyên tới cùng kỳ lý  hay tới cái nguyên nhân tối  hậu  phát sinh vạn vật.

Với những con người cổ đại  thì nguyên nhân tối hậu  ấy được cho là các vị thần như  thần mặt trời, thần lửa,  thần sông, thần núi v.v…Đặc biệt đối với Hy Lạp cổ đại  có các thần  được minh họa như thần Chaos,  tượng trưng cho tính chất hỗn mang. Thần Eros cho việc sinh sản và thần Gaia cho mẹ trái đất v.v…Sau thời  mang tính thần thoại ấy chấm dứt, triết học  mới được  khai  sinh “ Burnet nhận định chí lý rằng: Khi thôi không kể những chuyện hoang đường nữa là lúc các nhà bác học Milet đã thực sự bước một bước tiến vĩ đại. Bước tiến ấy là bắt đầu nhìn nhận “ Cùng Kỳ Lý” hay  “ Nguyên Nhân Tối Hậu” của vạn vật  không còn phải ở nơi thần thánh mà lại ở chính những hành chất nội tại trong thiên nhiên” ( Lê Tôn Nghiêm – LSTHTP Q. I ).

Những Hành Chất  nội tại trong thiên nhiên  ấy theo sự trình bày của từng trường phái  lại hết sức khác biệt: Với Thales ( 624 – 546 ) đó là Nước. Với Anaximandre ( 610 – 545 ) là Bất Định tức cái gì khác hẳn với những hành chất khác và từ đó các hành chất khác phát xuất. Với Phytagor ( 570 – 466 ) cho rằng  vạn vật được cấu tạo  bởi hai thành tố. Một là thiết định, hai là bất định. Với Heraclite ( 544 – 484 ) đó là Biến Dịch cũng được gọi là Logos Căn Nguyên và Logos Căn Nguyên này cũng chính là Đấng Tạo Hóa trong quan niệm  thần học hiện nay?

Dù được gọi là Logos Căn Nguyên, đó cũng vẫn chỉ là một trong những Hành Chất  nội tại  trong thiên nhiên mà thôi ? Nhận định này cho thấy  một vấn đề hết sức quan trọng đó là: Phải chăng quan niệm Đấng Tạo Hóa  của thần học cũng chỉ là một thứ “ Hành Chất Sơ Bản” hay nói khác đi  chỉ là một Ý Niệm  người ta  gán cho là Thiên Chúa chứ không phải Thiên Chúa như  đích  thật Ngài Là?

Thiên Chúa của thần học chỉ là một Ý Niệm và Ý Niệm  ấy  cũng  là một, không khác  với quan niệm Đấng Tạo Hóa của Aristote, duy có điều  là: “ Với tín hữu Ki Tô Giáo, vũ trụ và sự vận hành trong  vũ trụ  là do Thiên Chúa sáng tạo  từ hư vô. Trái lại với Aristote  cả vũ trụ cả sự vận hành của  nó đều có từ đời đời và không bị tạo dựng từ Thiên Chúa.

Với Aristote, Thiên Chúa chỉ được quan niệm như  một sức mạnh  kiểu Đệ Nhất Động Cơ để làm cho trời đất  vận hành chứ không biết gì đến cũng như không lo lắng “ thiên hựu” ( Providence ) cho vũ trụ. Như thế, Thiên Chúa của Aristote không hoạt động  trên vũ trụ  như một nguyên nhân tạo dựng  nữa mà  chỉ hoạt động bằng sức mạnh  lôi cuốn  tự nhiên  của mình nghĩa là  như một nguyên nhân chủ đích” ( L.T.Nghiêm SĐD ).

Thiên Chúa của thần học cũng là một với Thiên Chúa của Aristote, bởi vậy Giáo Hội ngay vào thời Trung Cổ đã nhìn nhận Aristote như một vị Tiền Hô ngang hàng với thánh  Jean Baptist: “ Proecursor  Christi in rebus naturalibus  sicut Joannes Baptista in  rebus gratuitis” ( Tiền hô của Đức Ki Tô trong những gì  thuộc lãnh vực thiên nhiên  không khác gì Gioan Baotixita trong lãnh vực ân sủng ).

Coi  Aristote  như  là vị tiền hô của Đức Ki Tô trong lãnh vực thiên nhiên. Điều ấy đã mặc nhiên  nhìn nhận Thiên Chúa là đấng đã tạo dựng thế giới vật chất hữu hình và đấng ấy lại  hoàn toàn tách biệt, chẳng có liên quan gì đến cái vũ trụ đã được tạo dựng ? Chính  sự tách biệt ấy  đã khiến cho  quan niệm của thần học về Thiên Chúa đối nghịch hoàn toàn với  Kinh Thánh về Đấng Thiên Chúa Cứu Độ: “ Vì Người nhân lành, từ bi, nhẫn nại, giàu lòng thương xót và biết hối tiếc về tai họa” ( Ge 2, 13 ).

Với  quan niệm một Thiên Chúa hoàn toàn tách biệt với vũ trụ và với con người như thế, thần học  đối nghịch với Kinh Thánh cũng như mạc khải của Đức Ki Tô về Đấng Cha ( Lc 10, 22 ). Tuy nhiên, thần học với tính chất Duy Lý của nó  thì sự tách biệt giữa Thiên Chúa và con người là  chủ trương  không sao tránh khỏi. Với  St Thomas  thì sự tách biệt ấy  được  coi như là nền tảng Hữu Thể Học: “ Theo tinh thần Aristote đã nói ở trên, Thomas luôn luôn bảo trì sự tách biệt  giữa Đấng Tạo Hóa và tạo vật. Hơn nữa,  với quan  niệm một Thiên Chúa siêu việt  có quyền năng vô hạn do đó được quan niệm  như có khả năng sáng tạo  vạn vật một cách phi thường  từ hư vô thừa hưởng từ Do Thái Giáo. Thomas luôn luôn chống lại  lý thuyết “ Diễn Xuất”  của thần bí. Do đó Thomas luôn nhấn mạnh  trên tác động sáng tạo phi thường  của Thiên Chúa  và những đặc tính  và đẳng cấp  tôn ti  của vạn vật  được Thiên Chúa tạo dựng  trong chiều hướng  làm nổi bật lên  sự khác biệt  hữu thể tính với Đấng Tạo Hóa của mình” ( L.T.Nghiêm – SĐD ).

Với  quan niệm Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa hoàn toàn tách biệt khỏi vũ trụ và con người  như thế  đã bị Triết Học Hiện Sinh  kịch liệt phê phán, cho đó là  thứ  Triết Học Phóng Thể khiến  con người bị vong thân, đánh mất mình. Chính vì sự vong thân ấy, F. Nietzche ( 1840 – 1900 ) đã tuyên bố cái chết của Thượng Đế: Phải giết chết Thượng Đế đi để con người được sống  xứng đáng  với phẩm giá  siêu nhân của mình !!!

Cùng với tuyên bố cái chết của Thượng Đế, F. Nietzche đưa ra một giá trị mới về đạo đức: “ Hãy làm như tôi, hãy đem những nhân đức lạc đường  trở về với trái đất. Phải, hãy đem nhân đức trở về  với thân xác và cuộc sống  để nhân đức của anh em  làm cho trái đất có ý nghĩa, nghĩa nhân bản. Từ nay, nhân đức  và tinh thần của anh em  chỉ phụng sự ý nghĩa của trái đất thôi. Nhờ đó, tất cả mọi sự  sẽ có một giá trị mới. Tôi cậy vào anh em, anh em phải là những vị sáng tạo” ( Trần Thái Đỉnh – Triết Học Hiện Sinh ).

F. Nietzche luôn nói đến ý nghĩa của trái đất tức ý nghĩa của cuộc hiện sinh và cuộc hiện sinh ấy lại chính là thân xác con người: “ Tôi muốn nói một lời với những người khinh chê thân xác. Họ không cần thay đổi lời giảng dạy nhưng họ nên  từ biệt thân xác họ và như vậy họ đã trở thành câm…

…Đứa trẻ nhỏ nói: Tôi là xác và hồn. Tại sao người ta không nói như trẻ nhỏ: Tôi là xác và hồn, lần đầu tiên  người ta được nghe những câu như thế. Hơn nữa, Nietzche  đã viết trên đây rằng: Tôi chỉ là thân xác mà thôi. Câu này dẫn chúng ta tới những quan niệm về tư thân ( Corps propre ) của Gabriel Marcel và Merleau Pongty khi hai triết gia này viết: Tôi là xác tôi” ( T.T.Đỉnh SĐD ).

Quan niệm “ Tôi là xác tôi” tưởng như  chỉ có  ở  nơi những Ý  Hệ Duy Vật, nhưng thật ra không phải vậy, hiện nay  nó lại được GHCG ( CĐ Vatican II ) chính thức nhìn nhận khi đưa ra định nghĩa về con người: “ Là một chủ vị duy nhất gồm có thể xác và  linh hồn. Con người tổng hợp nơi bản thân  các yếu tố  thuộc  về thế giới vật chất để từ đó chính con người làm cho những yếu tố ấy đạt tới đỉnh cao  và trở nên  lời ca tụng không ngừng dâng lên Đấng Tạo Hóa. Vì thế, không được khinh miệt đời sống  thể xác con người nhưng trái lại, phải coi thân xác  là tốt lành và đáng tôn trọng vì được Thiên Chúa tạo thành  và sẽ được sống lại trong ngày  sau hết” ( HCMV Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay ).

Cần coi trọng thân xác vì đã được Thiên Chúa tạo dựng ! Lời khuyên này hoàn toàn trái ngược với GHCG Tông Truyền trước đây vốn coi thế gian là chốn khách đày và thân xác con người  chỉ là bụi đất rồi có ngày sẽ trở về với đất bụi. Hơn nữa, theo thánh Gia Cô Bê, mạng sống con người  chỉ là  phù du: “ Mạng sống của anh em là chi ? Chẳng qua như một  chút hơi nước, hiện ra một lát rồi lại tan mất” ( Gc 4, 14 ).

Chính vì coi thế gian như chốn lưu đày, khổ ải  và xác thân con người chỉ là chút bụi đất hư hèn mà người Công Giáo mới cố gắng sống đời từ bỏ theo lệnh truyền của Đức Ki Tô: “ Ai muốn theo Ta thì hãy từ bỏ mình. Vác thập tự giá mình hàng ngày mà theo. Vì hễ ai muốn cứu mạng sống mình thì lại mất. Còn  ai vì cớ Ta mà mất mạng sống mình thì sẽ tìm lại được” ( Lc 9, 23 -24 ).

Muốn cứu lại mất, bỏ đi lại được, đây chính là nghịch lý của Đạo Xuất Thế Gian: “ Con đã ban đạo Cha cho họ mà thế gian ghen ghét họ  vì họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian vậy. Con chẳng xin Cha cất họ khỏi thế gian  nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự ác. Họ không thuộc về thế gian cũng như Con không thuộc về thế gian. Xin Cha lấy lẽ thật mà khiến họ nên thánh. Đạo Cha là Sự Thật” ( Ga 17, 14 -17 ).

Đạo Công Giáo là con đường xuất thế gian, đòi hỏi cần có sự từ bỏ nhưng nay với CĐ Vatican II lại chủ trương Tục Hóa, coi trọng thân xác, vậy làm sao có thể thực thi Lời Chúa  để “ Từ Bỏ” đây ? Không thực thi lời  dạy của Chúa  tức  đã phản bội Ngài và đây là biểu chứng rõ nhất về Ngày Của Chúa đã gần: “ Hỡi  các con bé mọn, giờ cuối cùng là đây rồi. Các con đã nghe  nói rằng Antichrist phải đến mà nay đã có nhiều Antichrist dấy lên rồi. Bởi đó chúng ta biết rằng nay là giờ cuối cùng. Họ từ  trong chúng ta mà ra nhưng chẳng thuộc về chúng ta vì nếu họ thuộc về chúng ta  thì hẳn cứ ở với chúng ta. Song họ đã đi, hẳn tỏ ra họ thảy đều chẳng thuộc về chúng ta đâu” ( 1Ga 2, 18 -19 ).

Thánh Gioan nói: Họ từ trong chúng ta mà ra nhưng nay lại không thuộc về chúng ta  để ám chỉ  những người trước đây vẫn có lòng tin nơi Chúa Ki Tô nhưng nay không còn nữa. Tin vào Đức Ki Tô, đó là  đường lối duy nhất: “ Ta là đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Cha mà không qua Thầy” ( Ga 14, 6 ).

Tin vào Đức Ki Tô để Ngài dẫn đến Đấng Cha, ngược lại nếu không tin thì không ai có thể đến với Cha được: “ Hễ ai chối Con thì cũng không có Cha. Ai nhìn nhận Con thì cũng có Cha nữa” ( 1Ga 2, 23 ). Một khi Chúa Giê Su đã nói: “ Không ai đến được với Cha nếu không qua Thầy”  thì điều đó chắc  chắn phải đúng như vậy có nghĩa không có bất cứ một triết học  hay  đạo giáo nào có thể nhận biết Thiên Chúa như là Đấng Cha nếu không có lòng tin nơi Đức Giê Su Ki Tô ! Hiện nay lòng tin nơi mạc khải của Đức Ki Tô về Đấng Cha  hầu như đã  biến mất  và nguyên nhân đưa đến  tình trạng mất đức tin ấy là do cuộc “ Dung Hòa Giữa Đức Tin Và Lý Trí” đã được Philon Le Juif, một triết gia Do Thái gốc Hy Lạp khởi xướng cách nay hơn hai mươi thế kỷ.

II/-  Cuộc Dung Hòa Đức Tin Và Lý Trí

Như vừa nói, dung hòa  Đức Tin và Lý Trí đã được khởi xướng bởi Philon d’Alexangdrie cũng thường gọi là Philon Le Juif vì ông là một triết gia Do Thái  nhưng có tinh thần Hy Lạp. Ông là con một gia đình giàu có và rất thần thế, đã được giáo dục cả về Do Thái Giáo lẫn triết lý Hy Lạp. Ông sống đồng thời nhưng chưa từng gặp gỡ Chúa Giê Su…

Trong cộng đồng người Do Thái sống tại Alexangdrie thời đó, người ta  chịu ảnh hưởng từ hai phía: Một của văn hóa Hy Lạp, một của niềm tin Do Thái Giáo qua  việc tiếp thu  Bản Kinh Thánh Bảy Mươi ( Septante ) là bản dịch do bảy mươi trí thức Do Thái mà phần lớn  đã chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi triết Hy Lạp…

Chính trong bối cảnh đó, Philon Le Juif  muốn làm một cuộc tổng hợp giữa  giáo lý của tiên tri Moise với học thuyết Platon, vì thế sau này  một môn đệ của Philon  mới nói rằng  Platon là  tiên tri Moise nói tiếng Hy Lạp ?:

“ Với ý định tổng hợp ấy, Philon nhắm tới việc dung hòa mạc khải với lý trí. Kinh Thánh với Platon. Có thể nói, vấn đề  vĩ đại nhất  trong Kinh Viện Học thời Trung Cổ tức vấn đề dung hòa  tín ngưỡng và lý trí  đã thừa hưởng được từ tinh thần của Philon. Do đó, triết sử gia H.A Wilfson  mới nói: Tất cả triết lý Trung Cổ đều mang bản chất Philon” ( L. T. Nghiêm – SĐD ).

Dung hòa mạc khải với lý trí. Mạc khải ở đây không là gì khác, thực chất  đó  là  lối giải nghĩa Thánh Kinh  căn cứ vào  Bản Bảy Mươi ( Septante )  đã có từ 03 TK trước công nguyên do bảy mươi trí thức Do Thái  dịch và chú giải theo tinh thần triết Hy Lạp cổ đại. Điều hết sức quan trọng nên nhớ đó là  việc giải nghĩa Kinh Thánh căn cứ vào Bản Bảy Mươi ấy nó chẳng có liên  hệ gì với Kinh Thánh Tân Ước sau Chúa Ki Tô Phục Sinh  từ 20 đến 50 năm. Với việc giải nghĩa Kinh Thánh, lại không có liên hệ gì với KT Tân Ước như thế thì làm sao nhận biết được Tin Mừng của Đức Giê Su Ki Tô?

Giải nghĩa Kinh Thánh theo tinh thần triết học Hy Lạp và gọi đó là…Mạc Khải, đây là một lầm lẫn hết sức tai hại  đã biến Thiên Chúa của Thực Tại Ngài Là ( Ego sum qui sum – Xh 3, 15 ) thành ra Thiên Chúa của khái niệm thần học ? Dẫu vậy, vấn đề giải nghĩa Kinh Thánh căn cứ vào triết Hy Lạp ấy vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay với tên gọi là Thiên Chúa Tự Mạc Khải ( Dei Verbum ).

Như vậy, mạc khải của Thiên Chúa không hơn không kém  vẫn chỉ là  cách giải nghĩa Kinh Thánh  căn cứ vào Bản Bảy Mươi do các trí thức Do Thái thời đó dịch và chú giải không  có liên quan gì với Kinh Thánh Tân Ước hay nói đúng hơn, với Mạc Khải của Đức Ki Tô về Đấng Cha: “ Ngoài Cha không ai biết Con. Ngoài Con và những ai Con muốn mạc khải cũng không ai biết Cha” ( Lc 10, 22 ).

Việc…biết Cha ấy không thể có được bằng lý trí phân biệt,  mà  trước hết cần  có  đức tin: “ Vả không có đức tin thì chẳng có thể đẹp lòng Ngài. Vì kẻ đến cùng Thiên Chúa cần phải tin rằng Ngài thực hữu và là Đấng ban thưởng cho những kẻ tìm kiếm Ngài” ( Dt 11, 6 ). Để có thể…gặp ( Giác Ngộ ) được Thiên Chúa  thì cần phải tin rằng Ngài Thực Hữu và  Đức Tin  ấy không thể…dung hòa với Lý Trí bởi đó là hai con đường hoàn toàn trái ngược nhau. Một đàng để có thể có được đức tin nơi Đấng Thiên Chúa Thực Hữu thì phải bỏ đi cái Tâm  Phân Biệt, còn  đàng khác  Lý Trí lại chủ về Tâm Phân Biệt !

Chính vì Lý Trí chủ về Tâm Phân Biệt nên nó được gọi là Nhị  Nguyên ( Dualisme ) và đây cũng chính là Tội Nguyên Tổ mà Đức Chúa Giehova  cấm không được ăn. Nếu  cố tình ăn ( Phạm ) thì sẽ phải chết ( St 2, 16 -17 ). Tội  Nguyên Tổ đưa đến cái chết về phần tâm linh tức không còn nhận biết Thiên Chúa như đích thực Ngài Là để thành ra một thứ Thiên Chúa của khái niệm thần học. Một trong những khái  niệm về Thiên Chúa  được Philon Le Juif…dung hòa  chính là “ Những Lý Tưởng” của Platon:

“ Trong đối thoại Time’e – Platon: Thiên Chúa  đã hiện hữu từ thuở đời đời  mà lúc ấy vũ trụ này chưa có và sau khi vũ trụ này đã được Ngài làm cho có  rồi thì Ngài vẫn tiếp tục hiện hữu như một thực tại vô thể xác, hiện hữu trên và vượt trên vũ trụ thể xác này” ( L.T. Nghiêm SĐD ).

Qua đối thoại “ Time’e – Platon” này cho thấy vấn đề quan trọng bậc nhất  trong triết/thần học từ trước tới nay vẫn là về sự hiện hữu của Thiên Chúa và đây cũng chính là mối quan tâm hàng đầu của St Anselme De Cantobery ( 1023 – 1109 ):

“ Chứng lý về sự hiện hữu của Thiên Chúa là một trong những mối bận tâm  có lẽ là bận tâm nhất đời của St Anselme. Tư tưởng ấy hầu như ám ảnh  ông ngày đêm, làm ông mất ăn mất ngủ mà còn dằn vặt ông  trong cả những giờ phút tế tự uy nghi nhất. Karl Jaspers có ghi nhận  rằng đó là một tư tưởng có tầm quan trọng trong chính tiểu sử của ông do chính lời ông tự thuật như sau: Vì tôi thường hăng say hướng tư tưởng tôi về vấn đề đó, đôi khi hình như tôi đã lãnh hội được điều tôi đang tìm kiếm nhưng đôi khi lại thấy vấn đề  hoàn toàn vượt ra ngoài  sức nhìn của trí khôn nên sau cùng, hoàn toàn thất vọng, tôi đã phải tránh xa vấn đề…

…Nhưng mỗi khi thoạt muốn xua đuổi những tư tưởng ấy thì chúng lại ồn ào trở về  lại dưới một dáng vẻ tế nhị để áp đảo tôi mặc dầu tôi không muốn và mặc dầu sự cưỡng lại của tôi. Một ngày kia, tôi đã mệt nhừ vì phấn đấu quá hung hăng với sức áp chế  rầy rà của chúng thì chính trong lòng  cuộc phấn đấu  tư tưởng ấy những gì tôi đã thất vọng lại hiện hình ra với tôi làm cho tôi vội vàng nắm lấy tư tưởng trước  kia tôi đã cố gắng băn khoăn xua đuổi” ( L.T. Nghiêm SĐD ).

Mối bận tâm dai dẳng và cũng rất khó chịu của St Anselme đó là về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Có nên tin  sự hiện hữu đó không hay cần phải chứng minh  và  việc chứng minh  ấy đã được  thực hiện bằng  luận cứ Hữu Thể Học:

“ Tóm lại, bất cứ trong giả thuyết có thể có nào, chúng ta cũng bó buộc phải tin rằng có một hữu thể  là nguyên nhân cho mọi hữu thể  mà không bị bất cứ cái gì khác làm nguyên nhân cho nó và chính vì vậy hữu thể ấy  phải có tính chất hoàn hảo vô hạn tất cả mọi sự khác nghĩa là hữu thể ấy  phải thực sự  thực tại, thực sự quyền năng và thực sự tốt lành. Rồi một khi  không lệ thuộc  một hữu thể nào  cả  hay một hiện hữu nào cả ngoài chính mình ra thì hữu thể ấy  phải là…tự tại và tự mình mà hiện hữu. Hữu  thể ấy hiện hữu không phải vì có cái khác  hiện hữu mà vì  Nó hiện hữu nghĩa là nó hiện hữu một cách thiết yếu, nó là hữu thể tất yếu” ( L. T. Nghiêm SĐD ).

Lý thuyết về sự hiện hữu này  tất cả đều dựa trên nguyên tắc bất cứ cái gì Có trong thiên nhiên đều phải có nguyên nhân chủ thể của nó. Tuy nhiên, nguyên tắc ấy chỉ đúng với cái nhìn…thường nghiệm chứ không thể áp dụng để chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa và sự chứng minh ấy rút cục Thiên Chúa chỉ còn là một Ý Niệm của thần học:

“ Tất cả trọng tâm của chứng lý chỉ nằm gọn trong câu: Không thể quan niệm  một cái gì lớn hơn nó được ( quo majus nihil  cogitari protest ). Theo đó phải hiểu rằng  Thiên Chúa là một ý niệm  vĩ đại vô cùng, trí khôn ta không thể quan niệm một ý niệm nào vĩ đại hơn nữa. Một ý niệm như thế không thể chỉ có trong trí óc mà phải có thực sự trong thực tại…

…Ở đây, rõ rệt Anselme cũng đã vay mượn nhiều yếu tố lý thuyết từ St Augustin và Platon  vì cũng như họ, ông đã đi từ ý niệm rằng  Thiên Chúa là một thực tại hoàn hảo để kết luận rằng  một thực tại hoàn hảo như thế không thể không hiện hữu thực sự được” ( L. T. Nghiêm SĐD ).

Lập trường mang tính Hữu Thể Học này sở dĩ có là do đã dựa vào Mạc Khải mà thực chất  như đã biết đó chỉ là cách giải nghĩa Kinh Thánh của Do Thái Giáo về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Với việc giải nghĩa đó, đức tin chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Lý do bởi vì  một khi sự hiện hữu đã được…mạc khải như thế  rồi thì còn gì nữa để  tin ? Chẳng những đức tin trở nên vô dụng, ngay đến việc tìm kiếm cũng chẳng còn  cần đến ?

“ Trong quan niệm của Ki Tô Giáo, Tín Điều ( Dogme ) đã được Giáo Hội thiết định ra mới là chân lý  tuyệt đối và duy nhất vì theo quan điểm thời Trung Cổ, chân lý đã sẵn có đó rồi không còn tìm kiếm ở đâu xa xôi. Giáo phụ Tertulien đã nhắn nhủ điều ấy: Đối với những tín đồ  Ki Tô Giáo thì không có  việc phải tìm kiếm chân lý. Theo tinh thần ấy, triết lý không là gì  khác hơn là  giải thích những tín điều, những hậu quả và chứng minh chân lý của những tín điều ấy” ( L. T. Nghiêm SĐD ).

Nếu chân lý tức sự hiện hữu của Thiên Chúa  chỉ  phải  tin chứ không cần tìm kiếm  thì dựa vào đâu để có được đức tin ấy ? Thần học cho biết đó là  dựa vào các thế giá: “ Qua đó, thế giá được coi trọng  hơn Lý Trí và thế giá có nghĩa là  chân lý được trình bày  là do thế giá của những người đáng tin cậy và những chân lý ấy chỉ có giá trị là khi chúng được xây dựng dựa trên thế giá của những con người đó…”

Với quan niệm coi “ Thế Giá” quan trọng hơn Lý Trí, thần học Ki Tô Giáo đã có một bước ngoặt mới: Từ việc tin theo…mạc khải  của Platon về sự hiện hữu của Thiên Chúa  thì giờ đây lại là Aristote qua  việc nhìn nhận của St Thomas: “ Khác xa các tiền bối, ông đã có được một kiến thức  thực sự sâu rộng  về Aristote. Người bạn tu sĩ của ông, ông Guillaum de Moerbeke đã cống hiến những bản dịch từ Hy Lạp và chính ông viết những chú giải. Cho tới thời đại  ông, tất cả những ý niệm của những người học về Aristote đều hơn kém  bị nhuốm màu của Platonisme mới. Trái lại, St Thomas hoàn toàn theo Aristote và không ưa thích Platon ngay thứ Platon tiềm tàng trong St Augustin. Hơn nữa, ông còn thành công  cả khi khuyến cáo GHCG hãy thừa nhận hệ thống Aristote làm nền tảng cho triết học Ky Tô Giáo hơn là hệ thống của Platon cả khi  khuyến cáo rằng: Những học giả Averroiste của Hồi Giáo và của Ki Tô Giáo đã giải thích sai lầm về Aristote” ( L. T. Nghiêm – SĐD ).

Nếu trước đây Philon  nhìn nhận Platon là tiên tri Moise nói tiếng Hy Lạp thì nay với St Thomas  vị  tiên tri ấy lại là Aristote. Thế nhưng dù là  với Platon hay Aristote  cũng chẳng có gì thay đổi, cả hai vẫn dựa trên nền tảng Hữu Thể Học nhằm mục đích chứng minh cho sự hiện hữu của Thiên Chúa ?

Dựa trên nền tảng Hữu Thể Học  để  chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa, điều ấy không thể không thể không đưa đến việc phá hủy niềm tin vào Đức Giê Su Ki Tô  và Tin Mừng mà Ngài rao giảng. Đang khi đó đức tin chân chính ( chánh tín ) của Giáo Hội nhất thiết phải là tin vào Tin Mừng của Đức Ki Tô cùng với lòng ăn năn sám hối tội mình: “ Thời đã mãn, Nước Thiên Chúa đã gần. Các ngươi hãy ăn năn, sám hối và tin vào Tin Mừng” ( Mc 1, 15 ).

Giữa lòng tin và việc sám hối, ăn năn có một mối liên hệ khăng khít không thể tách rời. Có ăn năn, sám hối tội mình thì mới có được lòng tin, ngược lại thì không. Càng nhận thức  và dốc lòng chừa cải tội mình bao nhiêu  thì lòng tin càng mạnh mẽ bấy nhiêu, lý do là vì tin ở đây chính là tin sự hiện hữu của Nước Trời mầu nhiệm nội tại ở nơi chính mình.    “ Nước Trời ví như  của báu  chôn  trong ruộng, có người tìm được thì yểm đi, vui mừng mà bán hết tài sản mình mà mua ruộng đó. Nước Trời lại ví như người lái buôn  kiếm được viên ngọc quý thì đi bán hết  tài sản mình mà mua nó” ( Mt 13, 44 -45 ).

Qua hai dụ ngôn này, Đức Ki Tô cho thấy Nước Trời  hay Nước Thiên Chúa  là một thực tại  mầu nhiệm  ẩn giấu nơi tâm hồn mỗi người. Chính là với Thực Tại Ẩn Giấu ấy  mới cần đến  đức tin  nhưng duy chỉ đức tin thôi chưa đủ mà còn cần phải hết lòng tìm kiếm. Giữa đức tin và việc tìm kiếm cái nào có trước, cái nào có sau, phải tin Thiên Chúa hiện hữu rồi mới tìm kiếm hay ngược lại ? Chính thánh Augustin đã nêu lên mối băn khoăn, thao thức này:

“ Lạy Chúa, xin cho con biết và hiểu phải kêu cầu Chúa trước hay phải ngợi khen Chúa trước, phải nhận biết Chúa trước hay phải  kêu cầu Chúa trước ? Nhưng có ai kêu cầu Chúa mà lại không nhận biết Chúa  trước ? Tuy nhiên, kẻ không nhận biết Chúa có thể kêu cầu một vị nào khác  thay vì Chúa ! Hay, đúng hơn há người ta  chẳng phải kêu cầu Chúa  để được nhận biết Chúa hay sao ? Nhưng làm sao lại kêu cầu được  Đấng mình không tin ? Và làm sao tin được, nếu không có người rao giảng  cho ? Các kẻ  tìm kiếm Chúa sẽ ngợi khen Chúa. Kẻ tìm kiếm Chúa sẽ gặp được Chúa, kẻ gặp được Chúa sẽ ngợi khen Chúa” ( Tự Thuật ).

Như vậy, giữa đức tin và việc tìm kiếm cần gắn chặt, bổ túc  cho nhau. Đức tin chỉ  triển nở nếu  gắn với việc tìm kiếm và việc tìm kiếm ấy cần thể hiện ngay trong đời sống cầu nguyện và tham dự Thánh Lễ  của mỗi một  Ki Tô Hữu dù là giáo sĩ hay giáo dân ! Bản chất cuộc khủng hoảng  của Giáo Hội hiện nay  chính là khủng hoảng về niềm tin do đã không còn tìm kiếm hầu trở về với Thiên Chúa, Đấng Cha  Hằng Hữu ở nơi mình.

III/-  Tin  và Hiểu 

             Thánh Augustin  có câu nói nổi tiếng và hầu như đã trở thành  công thức: “ Hãy suy tư để tin tưởng. Hãy tin tưởng để suy tư” ( Intellige ut credas. Crede ut intelligat ).Suy tư được hiểu theo hai cách. Một, đó là lẽ khôn ngoan của thế gian  cho là Lý Trí. Hai là sự khôn ngoan Thiên Chúa. Thánh Phao Lô đã phân tách sự khác biệt  của hai thứ khôn ngoan ấy như sau:

“ Người khôn ngoan ở đâu, Văn sĩ, triết gia, biện sĩ đời này ở đâu ? Thiên Chúa há chẳng đã làm cho sự khôn ngoan của thế gian này ra ngu dại ư ? Vì tại thế gian cậy sự khôn ngoan mình chẳng do sự khôn ngoan Thiên Chúa mà nhận biết Thiên Chúa cho nên Thiên Chúa vui lòng dùng sự ngu dại của đạo chúng ta rao giảng mà cứu rỗi những kẻ tin” ( 1C 1, 20 -21 ).

Ngu dại đây không phải là ngu si, đần độn  nhưng  là lẽ khôn ngoan của thập giá  tức  biết bỏ đi sự chấp chước  vào “ Cái Tôi” ảo tưởng. Có bỏ đi  sự  chấp chước ấy  thì mới có được đức tin chân thật. Thế nhưng làm sao  bỏ đi “ Cái Tôi” nếu không cậy dựa vào Đức Giê Su Ki Tô ? “ Đạo ở gần ngươi, ở trong miệng ngươi và ở trong lòng ngươi tức là Đạo Đức Tin  mà chúng tôi rao giảng đây. Vậy, nếu miệng ngươi  nhìn nhận Giê Su là Chúa và lòng ngươi tin Thiên Chúa  đã khiến Người từ kẻ chết sống lại  thì ngươi sẽ được cứu. Vì bởi lấy lòng tin mà được nên công chính và bởi lấy miệng thừa nhận mà được cứu” ( Rm 10, 8 -10 ).

Có nhiều bản Việt Dịch khác nhau về trích đoạn Thánh Kinh này đưa đến hai khái niệm hoàn toàn khác nhau về Thiên Chúa. Nhà văn Phan Khôi  dịch là “ Đạo” do ảnh hưởng minh triết Đông Phương: “ Đạo khả đạo phi thường Đạo. Danh khả danh phi thường Danh. Vô danh thiên địa chi thỉ. Hữu danh vạn vật chi mẫu” ( Đạo có thể  nói được, đó không phải là Đạo Thường. Danh có thể gọi  được đó không phải là Danh Thường.  Không tên là gốc của trời đất. Có tên là mẹ của vạn vật  – Lão Tử ĐĐK – chương một ).

“Thường” có nghĩa là thường hằng, bất biến.“ Đạo Thường” ấy không những không thể nói, mà còn không thể suy tư bằng lý trí. Trái lại, do ảnh hưởng của triết  Hy Lạp thế nên thay vì “ Đạo” lại dịch là Lời Thiên Chúa ! Với Thiên Chúa được hiểu  là “ Đạo” như thế mới thực sự  cần đến đức tin. Trái lại, nếu được hiểu là “ Lời Thiên Chúa”  tức Logos trong triết Hy Lạp thì chẳng những chẳng cần gì đến đức tin  mà ngay  đến việc tìm kiếm cũng chẳng cần  nữa?

Chính là với Đấng Thiên Chúa hiểu là “ Đạo” như thế  mới cần phải tin và đức tin ở đây là tin vào Mạc Khải của Đức Ki Tô: “ Chẳng ai từng thấy biết Thiên Chúa bao giờ. Duy Con Một ở trong lòng Cha là Đấng đã mạc khải Cha” ( Ga 1, 18 ). Thấy biết Cha, như đã biết đó không phải là  với giác quan mà  Lý Trí cũng vậy. Lý Trí chủ về sự phân biệt hay nói theo triết học Kant đó chỉ là  khả năng kết luận  tức đi từ quan niệm này đến quan niệm khác mà không hề nhắm đến Thực Tại. M. Heidegger, triết gia đương đại của TK 20 gọi việc không nhắm đến Thực Tại ấy là “ Lãng Quên Tính Thể” ( Oublie’ de L’ Être ):

“ Khác với các triết gia trước, Heidegger chủ trương Lý Trí không phải là một  khả năng tách biệt  của  con người, càng không phải là một thực thể  thuộc thế giới. Lý Trí phát xuất từ chính Hữu Thể là điều kiện nền tảng để nhận biết Hữu Thể. Như thế, Heidegger chỉ ra một lỗi lầm kéo lê từ Platon đến Kant là đã thần thánh hóa và siêu việt hóa Lý Tính của con người, xem nó như là  khả năng ngoại tại  và khách quan chẳng dính dáng gì đến Hữu Thể cả. Lao mình vào hành trình  khám phá vô bổ ấy, triết học Tây Phương  là một tiến trình  Lãng Quên Tính Thể. Đồng thời với việc  làm sống động lại những vấn nạn về Hữu, triết học Hữu Thể Luận  của Heidegger  cũng cung ứng  những nền tảng  cho Thông Diễn Học  từ quan  niệm mới mẻ về sự hiểu biết” ( Lm Cao Gia An S.J – Học Viện Thần Học Đa Minh – 23/9/2018 – Heidegger và Thông Diễn Học  Hiện Đại ).

Thực ra cái lỗi thần thánh hóa và siêu việt hóa  Lý Tính tức Logos không phải chỉ…kéo lê từ Platon đến Kant, nó còn kéo dài mãi cho tới tận ngày nay do vẫn chưa thoát được ảnh hưởng của Hữu Thể Học bắt nguồn từ Parmenid ( Khoảng 550 TCN ). Đang khi đó Hữu Thể Học  chỉ là sản phẩm của triết cổ đại Hy Lạp tức… khôn ngoan thế gian ! Bao lâu còn cậy dựa vào khôn ngoan thế gian thì bấy lâu không thể nhận biết Thiên Chúa. Do đó thánh Augustin đã đưa ra một quan niệm mới về triết học hiểu như là lẽ  Khôn Ngoan Thiên Chúa:

“ Augustin rất hay lập đi lập lại rằng: Triết lý đích thực phải là tôn giáo đích thực và thần học đích thực ( …). Nếu triết lý là ham mê minh triết  thì minh triết tuyệt đối lại  chính là Thiên Chúa. Nhưng chúng ta chỉ hiểu biết được Thiên Chúa  bằng tín ngưỡng  và tín ngưỡng thì gặp được  mạc khải của Thiên Chúa trong Kinh Thánh mà thôi. Vậy chỉ có triết lý của Kinh Thánh mới là triết lý đích thực. Và E. Gilson đã nhận định rất chí lý rằng: Đó là đường hầm giúp ta hiểu được  chính xác ý nghĩa của câu cách ngữ  thời danh: Hãy tin tưởng để rồi suy tư. Nghĩa là triết lý không tách rời với những tin tưởng sâu xa  của người tín hữu, trái lại nó biểu hiện chúng một cách  đương nhiên. Nhưng ngược lại, công thức đối  nghịch công thức trên tức hãy suy tư để rồi tin tưởng  cũng có phần đúng lý của nó nghĩa là  lý trí cần phải  hoạt động trước hết  như điều kiện chuẩn bị  hướng dẫn ta tới Ngôi Lời và do đó ta có thể nhìn nhận Ngài bằng tín ngưỡng. Nhưng công thức thứ hai  chỉ được sáng tỏ  hoàn toàn là nhờ ở công thức thứ nhất: Hãy tin tưởng  để rồi suy tư, triết lý đích thực là tôn giáo đích thực” ( L. T. Nghiêm – SĐD ).

Nói triết lý đích thực phải là tôn giáo đích thực có nghĩa triết lý cần  gắn với thực hành và thực hành ở đây chính là sống đời sống  tôn giáo. Không có đời sống tâm linh tôn giáo  thì mọi thứ  triết học dù cao siêu, minh triết đến đâu cũng vô bổ, chẳng đem lại lợi ích chi cho con người. Tuy vậy sống đời sống tôn giáo  trưởng thành  không loại trừ cho người tín hữu khỏi việc suy tư  với điều kiện là phải biết  cậy nhờ nơi Đức Ki Tô để Ngài dẫn đến Đấng Cha:“ Trong Ngài, chúng ta nhân đức tin đến Ngài  để được vững lòng mà vào cùng Thiên Chúa” ( Ep 3, 12 ).

Đặt lòng tin  nơi Đức Giê Su để…vào cùng Thiên Chúa. Về động từ “ Vào” ở đây chỉ có thể hiểu đó là…vào nơi nội tâm  mỗi người, không  thể  có cách hiểu nào khác ! Tuy nhiên đây là  vấn đề  hết sức quan trọng có liên quan đến việc tìm kiếm hiểu như là  Trở Về với Thiên Chúa, Đấng Cha Hằng Hữu ở nơi mình. Thánh Augustin luôn băn khoăn thao thức với việc trở về ấy: “ Lạy Chúa, Chúa đã tạo dựng con cho Chúa, vì vậy con còn mãi xao xuyến cho đến khi gặp được Chúa” ( Tự Thú ).

IV/-  Tin  và  Yêu 

Cuộc dung hòa Đức Tin với Lý Trí do Philon Le Juif  khởi xướng  sở dĩ  không thể đưa đến đức tin chân thật  là vì  đã  căn cứ vào Bản  Bảy Mươi  mà không có mối liên hệ nào với Tân Ước ! Đang khi đó Kinh Thánh ví như  dòng sông lớn chảy về biển cả, Cựu Ước chính  là  thượng lưu còn Tân Ước là hạ lưu. Không có thượng lưu thì làm gì có hạ lưu, ngược  lại nếu không có hạ lưu  thì cũng không thể có thượng lưu và khi ấy thượng lưu chỉ còn là một…hồ nước đọng, không thông lưu về đâu cả !

Về tính chất  thông lưu giữa Cựu Ước và Tân Ước, thánh Augustin có một câu nói xác đáng:“ Tân Ước giấu ẩn trong Cựu Ước. Cựu Ước tỏ lộ trong Tân Ước” ( Novum Testamentum in Vetere latet et in Novos Vetus patet ). Chúng ta chỉ có thể  nhận ra  các chân lý TK Cựu Ước khi liên hệ với Tân Ước và ngược lại những chân lý Tân Ước chỉ  được phô bày khi liên hệ với Cựu Ước.

Dòng sông chỉ có một  hướng thông lưu đó là  chảy về biển cả và biển cả ấy chính là Thiên Chúa, Đấng là Bản Thể Tình Yêu ở nơi mỗi người. Thánh Gioan  kêu gọi: “ Hỡi kẻ yêu dấu, chúng ta hãy yêu thương nhau vì tình yêu đến từ Thiên Chúa. Hễ ai yêu thương thì sinh bởi Thiên Chúa và nhận biết Thiên Chúa. Còn ai chẳng có lòng thương yêu thì không nhận biết Thiên Chúa vì Thiên Chúa Là Tình Yêu” ( 1Ga 4, 7 -8 ).

Thiên Chúa Là Tình Yêu. Điều ấy có nghĩa  Thiên Chúa là Bản Thể Tình Yêu ở nơi mỗi người  và khi Thiên Chúa  được hiểu như là Bản Thể Tình Yêu như thế  thì việc tìm kiếm  đó chẳng phải là quay trở  về  với Ngài hay sao ? Thánh Augustin  nói rất rõ về việc quay trở về  này:

“ Con đã yêu mến Chúa quá muộn. Ôi ! Đấng tốt đẹp, rất cổ kính và rất tân kỳ. Con đã yêu mến Chúa quá muộn. Này, Chúa vẫn ở trong con mà con lại ở ngoài con và tìm Chúa ở bên ngoài; là kẻ xấu xa, con đã lăn xả vào  những  vật xinh đẹp Chúa đã dựng nên. Chúa đã ở với con mà con lại không ở với Chúa. Chính những vật, nếu không hiện hữu trong Chúa thì không bao giờ  hiện hữu, đã cầm giữ con xa Chúa. Chúa đã kêu gọi, đã gào thét, đã thắng sự điếc lác của con. Chúa đã soi sáng, đã chiếu rọi đã xua đuổi  sự mù lòa của con. Chúa đã  tỏa mùi thơm của Chúa  ra và con đã được hít lấy và  đâm ra say mê Chúa. Con đã  được nếm Chúa và đâm ra đói khát Chúa, Chúa đã đụng đến con và con ước ao sự bình an của Chúa’ ( Tự Thuật ).

Thánh Augustin đã nói lên cái kinh nghiệm “ Ngộ” và tỏ ra tiếc nuối vì đã gặp Chúa quá muộn ! Tuy nhiên, cái gì cũng phải có thời, có cơ duyên của nó. Biến cố “ Ngộ” này  thường được  các sử gia gọi là  “ Sự Quy Hồi” ( La conversion ). Chính thánh Augustin  đã tường thuật lại cho ta câu chuyện  quyết định tối hậu ấy như sau: “ Một ngày kia, đang khi ông đi vật vờ, lạc lõng và  thất vọng  trong đau thương, dằn vặt, bỗng nhiên  ông cảm thấy không sao cầm nổi được  dòng nước mắt. Lập tức ông ra vườn đi dạo thì tiếng của một người vang vọng từ ngôi nhà bên cạnh  nhủ ông rằng:

Hãy cầm lấy quyển sách mà đọc ( Tolle et lege ). Tuân theo tiếng hát ru ấy như một tiếng nói thần linh, ông cầm lấy cuốn Kinh Thánh  của St Paul và gặp ngay câu sau đây: Nhà ngươi hãy  tham dự sự sống của Chúa Giê Su Ki Tô và đừng chiều theo tính xác thịt nữa !

…Vừa đọc xong đoạn trên. Lập tức linh hồn tôi được chan hòa ánh sáng của một chân lý chắc chắn. Một quyết định chung cục lay động tâm can cuộc đời ông. Thiên Chúa mà mẹ đã dạy cho ông  thuở nhỏ, giờ  này đây đã đón nhận ông. Từ đây, trần thế sẽ trở thành vô nghĩa. Ông viết:  Lạy Chúa vì Ngài đã giác ngộ con  nên từ đây con không còn ham muốn một người đàn bà nào nữa hay một sự vật gì  có thể  gây cho con hy vọng trần tục nữa” ( L.T. Nghiêm SĐD ).

Sau biến cố…đặc biệt ấy, Augustin đã lãnh nhận Phép Thánh Tẩy rồi chịu chức Linh Mục, Giám Mục. Đây phải là kết quả  của một quá trình tìm kiếm tích cực và  lâu dài theo ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần và ơn soi sáng ấy đã được tác động trước hết qua một người mẹ: “ Ngài ( Bà Monica ) đã gặp con trong tình trạng nguy khiếp khiến bà hết hy vọng tìm tòi chân lý. Nhưng khi con cho ngài biết  không còn là đạo hữu Manes ( Bè Rối ) nữa mà cũng không phải là tín hữu Công Giáo thì ngài không có nhảy mừng như được nghe một tin tức bất ngờ. Vì ngài đã  được chắc chắn về  các phần khốn nạn của con  đã làm cho ngài phải khóc với Chúa về con như khóc về một người chết nhưng để được sống lại. Trên một đòn khiêng tưởng tượng, ngài dâng con lên cho Chúa  để được Chúa phán bảo như phán bảo con bà góa: Hỡi thanh niên, Ta truyền  cho mi hãy chỗi dậy. Nó đã sống lại, bắt đầu nói năng  và Chúa đã trao nó cho mẹ nó. Vậy tâm hồn ngài không vui mừng  quá độ, khi nghe  biết đã đạt được một  phần lớn điều mà hàng ngày ngài than van kêu cầu Chúa  cho được ở con, chưa đạt tới chân lý  nhưng đã thoát khỏi  lầm lạc. Hơn thế nữa, vì ngài chắc chắn là  phần còn lại. sẽ được Chúa ban cho  vì Chúa đã hứa ban cho tất cả  cho nên  ngài đã trả lời con một cách rất bình tĩnh và đầy lòng cậy trông  là người tin cậy vào Chúa Ki Tô rằng: Trước khi từ giã cõi đời này, ngài sẽ thấy con là một tín hữu Công Giáo” ( Tự Thuật ).

Việc trở lại của thánh Augustin do nhiều yếu tố cộng hưởng nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là tấm lòng tha thiết của bà Monica cho phần rỗi của con mình. Tuy nhiên, theo lời thú nhận của vị thánh này  thì ảnh hưởng ấy dường như không có gì đáng kể:“ Thật là khốn cho con; và con dám nói rằng: Chúa đã làm thinh, lạy Chúa đang khi con lìa Chúa, mỗi ngày một xa hơn ? Mà lúc đó thật sự có phải Chúa đã làm thinh với con không ?  Vậy là của ai nếu không phải là của Chúa, những lời mà qua mẹ con, là tín hữu của Chúa, Chúa đã lặp đi lặp lại  vào tai con ? Nhưng không lời nào xuống tới lòng con  để được thực hiện: Điều mà mẹ con muốn và con còn nhớ  người đã kín đáo  và ân cần nhủ bảo con là chớ có tà dâm, nhất là chớ có phạm tội ngoại tình với vợ ai !…

…Con cho đó là những lời khuyên của đàn bà, nghe theo là một tủi nhục. Thật ra, những lời đó là của Chúa mà con không biết và con tưởng Chúa làm thinh, chỉ có mẹ con nói. Nhưng qua người, Chúa đã nói với con  và con đã khinh dể Chúa  nói với mẹ con, vâng chính con là con  của người là con của nữ tì Chúa” ( Tự Thuật ).

Ơn Chúa tuy  giống như làn sương mỏng nhưng lại thấm đẫm với những người được chọn. Augustin thuở thanh niên rất thích khoa hùng biện và trong một lần kia nghe người ta nói giám mục Ambrosio giảng rất hấp dẫn  nên đã đến nghe chỉ vì …tò mò nhưng rồi đã  có bước khởi  đầu  để  trở về với đức tin Công Giáo:

“ Nhưng vì  con không cố gắng học những điều người dạy mà chỉ nghe cách người nói. Đó là lo âu hư ảo còn sót lại cho con vì con đã hết hy vọng về một con đường  mở ra cho con người đi tới Chúa. Tuy nhiên, cũng với các lời nói mà con ưa thích, các điều mà con xa lãng  cũng đến với tâm trí con. Vì con không thể  phân tách chúng ra được. Đang khi con mở tâm hồn để đón nhận những lời hùng biện của người thì chân lý người giảng cũng từ từ vào theo…

…Trước hết, con bắt đầu thấy rằng: Các điều người nói có thể bênh vực được và con tưởng đức tin Công Giáo mà xưa kia con cho là không thể chống lại được các công kích của bè Manes thì lại được khẳng định một cách đàng hoàng  và điều đó, nhất là sau một lần, hai lần, nhiều lần  được nghe người giải thích những đoạn tối nghĩa  của Cựu Ước mà cách giải thích theo nghĩa đen  đã giết chết con. Vậy, sau khi đã được nghe người giải thích đoạn Thánh Kinh theo nghĩa thiêng liêng, con đã chê trách sự nản chí của con  đã làm cho con tưởng rằng: Không thể nào chống lại được những kẻ nguyền rủa và chế diễu Lề Luật và các tiên tri” ( Tự Thuật ).

Với ơn soi sáng của Chúa Thánh Thần, thánh Augustin đã được Ơn Trở Lại và ơn ấy phải là tấm gương sáng  rỡ cho Giáo Hội hôm nay, một giáo hội hầu như đã…cạn kiệt đức tin do nạn Tục Hóa gây ra. Cuộc trở về ấy nhất thiết  cần cho mỗi  tín hữu dù trong  bất cứ đấng bậc nào. Tuy nhiên có ơn soi sáng là để thực hành, không thực hành  thì Ơn Chúa cũng trở thành vô ích: “ Sao  các ngươi gọi Ta là Chúa, Chúa mà không làm theo lời Ta truyền dạy ? Ta sẽ chỉ cho  các ngươi biết  kẻ nào đến cùng Ta, nghe lời Ta và làm theo  thì giống ai ? Kẻ ấy ví như  người kia, khi xây nhà  đã đào sâu, đặt nền trên đá tảng. Nước lụt có dâng ùa vào, cũng không bị đổ sập. Song kẻ nào  nghe mà không  làm theo  thì ví như người kia xây nhà trên đất không nền tảng, nước lụt đổ vào nhà đó sẽ bị hư hại lớn” ( Lc 6, 47 -49 )

V – Tìm  kiếm  để  trở  về 

          Thánh Augustin, sau khi được ơn trở lại đã viết rất nhiều sách bàn về nhiều lãnh vực khác nhau nhưng trong đó, điển hình nhất là cuốn “ Tự Thuật” ( Les Confession ). Tiêu đề cuốn sách lấy ý từ Thánh Kinh, vừa là lời thú tội vừa là lời tán dương Lòng Thương Xót Chúa.

Vấn đề cốt lõi của Thánh Kinh chính là Sự Trở Về  và  sự trở về ấy có được tất cả là do Lòng Thương Xót Chúa “ Vì ĐCT đã nhốt mọi người trong sự không vâng phục cốt để thương xót hết thảy. Ôi, sâu thẳm  thay là sự giàu có của cả sự khôn ngoan  lẫn tri thức của ĐCT. Sự  phán đoán của Ngài nào ai đo lường được ? Đường lối của Ngài nào ai tìm dấu vết được ?” ( Rm 11, 32 -33 ).

Chân lý vốn dĩ là một, các chân lý Thánh Kinh  cùng với minh triết Đông Phương đã gặp nhau ở cái điểm “ Trở Về” ấy: “ Ta không biết  tên, gọi đó là Đạo. Gượng cho là Lớn. Lớn là tràn khắp. Tràn khắp là đi xa. Đi xa là trở về” ( Ngô bất tri kỳ danh. Tự  chi viết Đạo. Cưỡng vi chi danh viết Đại. Đại viết thệ. Thệ viết viễn. Viễn viết phản – Lão Tử ĐĐK – Chương 25 ).

Càng đi xa càng cần gấp trở về. Đi xa ở đây được hiểu là tội lỗi. Tội càng nặng, càng nhiều bao nhiêu càng cần sớm trở về bấy nhiêu. Vấn đề quan trọng ở chỗ là có ý thức được tỗi lỗi mình hay không ? Thánh Augustin  hồi tưởng lại  cái tội rất nặng đã phạm khi  còn  là  một  thiếu niên:

“ Ở cạnh vườn nho của chúng con, có một cây táo rất sai trái nhưng về hình dáng và hương vị thì chẳng có gì làm chúng con thèm khát. Thế mà  lũ thanh niên mất dạy chúng con, theo thói quen xấu chơi giỡn ở phố cho tới đêm khuya, rồi tới rung cây táo, lấy  hết trái mang đi nặng nề, không phải để ăn mà chỉ để vứt đi cho heo. Nếu chúng con có ăn  một  ít  nào thì tất cả  thích thú của chúng con là vì đã làm một việc cấm đoán mà thôi…

…Tâm hồn con là thế đó, lạy Chúa, tâm hồn con là thế đó, mà Chúa đã thương xót nó từ đáy vực sâu. Bây giờ tâm hồn con hãy thưa  cho Chúa biết nó tìm cái gì ở đó: Một sự xấu xa vô ích, một sự xấu xa không  có lý do nào khác ngoài sự xấu xa. Vì nó xấu xa mà con ưa thích nó, con ưa thích sự hư đi của mình, con ưa thích sự sa đọa của mình, con không ưa thích cái làm cho con sa đọa mà là chính sự sa đọa. Tâm hồn nhơ nhớp và lìa bỏ sự nâng đỡ vững chắc của Chúa, để hư đi, không ưa thích cái gì vì hư đốn mà ưa thích chính sự hư đốn” ( Tự Thuật ).

Tội lỗi khiến con người phải xa cách Thiên Chúa và  tội nặng nhất  không chi bằng đó là  sự  kiêu ngạo. Augustin đã thú nhận  và nhận ra bản chất đáng ghê tởm của tội này: “ Lòng thương xót trung thành của Chúa, xa xa bay lượn trên con. Con bị phân tán và hư đi trong trăm ngàn tội ác. Con đã bỏ Chúa  mà chạy theo sự tò mò bất chính, nó đã đưa con xuống vực thẳm bất  tín, làm nô lệ lưu manh của ma quỷ. Con lấy những việc tội lỗi của con  mà cúng tế nó. Và trong  mọi sự ấy, Chúa đã đánh đòn con. Trong một buổi lễ trọng giữa thánh đường của Chúa, con còn dám ước ao  và mối lái cho được  hưởng hoa trái sự chết, do đó Chúa phạt con còn nặng đòn hơn nhưng không thấm gì với tội con. Ôi lạy Chúa, Chúa thương con vô cùng, Chúa là nơi ẩn náu  khỏi những nguy hại kinh hồn mà con đang phiêu lưu trong đó, với tính tự kiêu, tự  đại, mỗi ngày  mỗi xa Chúa hơn, ưa thích đường lối của con hơn đường lối của Chúa, ưa thích tự do của đứa tôi đòi trốn chủ !

…Các môn học của con được gọi là vinh dự, có môi trường  hoạt động  là tòa kiện tụng, con muốn được nổi bật thì càng lắm mánh khóe càng chóng thành công. Con người mù quáng là dường nào; lấy chính sự mù quáng  của mình làm vinh dự. Lúc đó, con đã được nổi nhất ở trường hùng biện và tính kiêu ngạo, khoe khoang đã làm con vui sướng” ( Tự Thuật ).

Ngoài môn hùng biện  chỉ để thỏa mãn tính kiêu ngạo, Augustin  còn đam mê các môn khác như văn chương, kịch nghệ, thiên văn v.v…nhưng từ thâm tâm chàng thanh niên ấy vẫn có  niềm thôi thúc  tìm  đến  sự khôn ngoan đích thực  nơi cuốn Kinh Thánh  và  rồi  chỉ đưa đến… thất vọng:

“ Vậy con quyết tâm chăm chỉ đọc Thánh Kinh để biết sách đó thế nào ? Và con thấy thế này, là sách đó  không rõ ràng cho kẻ kiêu ngạo mà cũng chẳng sáng sủa cho trẻ con nhưng như cái gì  mà cửa vào thì thấp, tiến bước thì lên cao mãi và luôn có mầu nhiệm bao phủ mà con không phải  thứ người có thể bước vào, hay là cúi đầu thích nghi  với bước tiến đó. Những điều con nói hôm nay không giống với cảm nghĩ của con  lúc mà con để ý đọc Thánh Kinh.  Con cho sách đó  không xứng đáng để con so sánh với uy thế của sách Cice’ron. Vì kiêu ngạo, con khinh chê sự đơn sơ của Kinh Thánh và trí khôn con không thấu đáo được bề sâu của sách đó. Vì thật ra, sách đó đã được chép  để cùng tiến tới trẻ thơ. Mà con thì không thèm trở nên trẻ thơ và cho thái độ kiêu ngạo khoe khoang của mình là  cao thượng” ( Tự Thuật ).

Trẻ thơ để ám chỉ cho những tâm hồn đơn  sơ không có thành kiến, chấp  chước…Một khi đã  mang một thành kiến nào đó thì không bao giờ có thể đọc và hiểu được Kinh Thánh. Lý do bởi vì  mục đích của cuốn sách thánh ấy  là để sống, để thực hành chứ không phải  chỉ để… suy tư, nghiên cứu gì đó. Thánh Phao Lô nói với môn đệ ngài là Timothe’: “ Nhưng con  hãy cứ ở trong những điều con đã học, đã tin chắc vì con đã học những điều đó với ai và từ khi con còn thơ ấu đã biết Kinh Thánh vốn có thể khiến con khôn ngoan để được cứu rỗi bởi đức tin trong Chúa Giê Su Ki Tô” ( 2Tm 3, 14 -15 ).

Chính bởi không biết mục đích của Kinh Thánh là để thực hành hầu mang lại Ơn Cứu Rỗi thế nên chẳng những vào thời đại thánh Augustin mà cho đến nay trên phương diện thần học vấn đề Mầu Nhiệm Sự Dữ  vẫn chưa thể giải quyết: “ Lúc đó con không biết có một thực tại khác mới là đúng thực và như bị kích thích, con đã đi về phía  các kẻ khả tiếu ( ? )  đã lường gạt con  khi chúng hỏi con: Sự dữ bởi đâu đến ? Thiên Chúa có bị giới hạn bởi một thân xác không ? Người có tóc có móng tay không ? Có nên coi là công chính những kẻ có nhiều vợ  một lúc ? Những kẻ giết người, lấy  súc vật  cúng tế không ?  Các vấn nạn đó làm con bối rối vì ngu dốt và đang khi quay lưng về chân lý con đã tưởng mình đi tới chân lý ! Vì lúc đó con không biết sự dữ là thiếu sự lành, sự thiếu thốn đi tới hư vô. Và làm sao con biết được vì mắt con chỉ để vào thể xác và trí khôn con chỉ để vào ảo ảnh” ( Tự Thuật ).

Tưởng chừng, Augustin đã phần nào nhận thức được vấn đề Sự Dữ, thế nhưng không phải vậy, đây vẫn là một  nỗi ám ảnh khôn nguôi:“ Như vậy, lạy Chúa là Đấng  che chở con. Chúa đã giải thoát con  khỏi các xiềng xích đó  nhưng con còn tìm  cho biết  nguyên nhân sự dữ và con chưa có lối thoát. Tuy nhiên, Chúa không để cho các sóng cồn  của tư tưởng  đẩy con ra khỏi đức tin, đã làm cho con tin có Chúa, tin Bản Thể Chúa bất dịch, Chúa săn sóc và phán xét nhân loại và, trong Đức Ki Tô, Con Chúa, Chúa chúng con và trong Kinh Thánh được giáo hội  bảo đảm, Chúa đã thiết lập con đường cứu rỗi nhân loại, đưa họ tới sự sống sẽ có sau cái chết đời này” ( Tự Thuật ).

Như đã biết Mầu Nhiệm Sự Dữ cho đến nay vẫn chưa  được nhận thức  mà nguyên nhân sâu xa đưa đến cho nó chính là  vấn đề Thiên Chúa Hiện Hữu. Thiên Chúa hiện hữu  hay không hiện hữu ? Nếu Thiên Chúa hiện hữu và toàn năng  thì không thể  có sự dữ. Ngược lại, vì sự dữ, khổ đau vẫn tràn lan nên quyết chắc Thiên Chúa không hiện hữu ?

Thánh Augustin cũng như những  vị thánh khác đã  được  ơn trở lại  nhờ  lòng tin  nơi  Đức Giê Su Ki Tô và tích cực  thực  thi  giới răn yêu thương của Ngài: “ Điều răn của Ta đây này: Các ngươi hãy yêu thương nhau cũng như Ta đã yêu thương các ngươi. Chẳng ai có sự thương yêu  lớn hơn là vì bạn hữu mà bỏ mạng sống mình. Ví thử  các ngươi thực hành những điều Ta truyền dạy cho thì các ngươi là bằng hữu của Ta. Ta chẳng còn gọi các ngươi là tôi tớ nữa vì tôi tớ thì chẳng biết  điều chủ mình làm. Nhưng Ta gọi các ngươi là bằng hữu vì Ta từng tỏ cho các ngươi biết mọi điều Ta đã nghe ở nơi Cha Ta” ( Ga 15, 12 -15 ).

Đức Ki Tô từng tỏ ( mạc khải ) những gì Ngài… nghe biết ở nơi Cha Ngài. Điều đó chẳng phải là Chúa Giê Su  nhìn nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa mà Ngài gọi là Đấng Cha hay sao ?. Với Đức Ki Tô thì Thiên Chúa hiện hữu bởi vì Ngài đã thấy biết Thiên Chúa, còn phàm nhân chúng ta thì không. Trước khi đi nộp mình chịu chết, Chúa Giê Su đã dâng lên Chúa Cha lời khẩn nguyện tha thiết: “ Cha công chính ơi, thế gian chẳng từng biết Cha. Song Con đã biết Cha và những kẻ này  cũng biết Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho họ biết  Danh Cha lại còn tỏ cho họ biết nữa, hầu cho  sự thương yêu của Cha đem lòng thương yêu Con được ở trong họ và Con cũng ở trong họ nữa” ( Ga 17, 25 -26 ).

Đức Giê Su Ki Tô không những  xác quyết  sự hiện hữu của Thiên Chúa mà còn nói rằng  tất cả những gì Ngài giảng dạy đều không phải của Ngài nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ngài: “ Bởi  Ta chẳng nói tự mình bèn là Cha  Ta đã truyền lịnh cho Ta phải nói điều gì và giảng điều chi. Ta biết  mạng lịnh Ngài là sự sống đời đời. Vậy lời Ta nói  thì nói theo như Cha Ta đã  truyền” ( Ga 12, 49 -50 ).

Chúng ta không thể không tin sự xác quyết của Chúa Giê Su Ki Tô về sự hiện hữu của Thiên Chúa. Thế nhưng vấn đề hết sức quan trọng  cần đặt ra  đó là về  chính sự Hiện Hữu ấy và đây cũng  là thắc mắc của thánh Augustin: “ Vậy trời và đất  có chứa được Chúa không ? Vì Chúa đã tràn ngập chúng ? Hay là Chúa tràn ngập chúng con  mà còn  dư  vì chúng không chứa được  Chúa ? Vậy sau khi đã  tràn ngập trời và đất Chúa đổ vào đâu phần dư của Chúa ? Hay là Chúa  không cần phải có  vật nào  chứa đựng Chúa  là Đấng chứa đựng mọi sự  vì vật nào  được Chúa tràn ngập  thì Chúa tràn ngập  nó bằng cách chứa đựng nó ? Thật vậy, không phải các bình chứa  đầy  Chúa làm cho Chúa được ổn định đâu. Vì nếu chúng có bị bể  thì Chúa cũng không bị tràn ra ngoài. Và khi Chúa tràn ngập chúng con, Chúa  không bị rớt xuống, một là nâng chúng con lên: Chúa cũng không bị phân tán, một là đoàn tụ chúng con lại” ( Tự Thuật ).

Với  thánh Augustin  thì sự hiện hữu của Thiên Chúa trên tạo vật bằng Tình Yêu vô biên  của Ngài và  con người là những bình chứa lớn, nhỏ khác nhau. Tình Yêu  ấy giống như mưa trời đổ  chan hòa  trên vạn vật, bình lớn thì chứa được nhiều, còn bình nhỏ thì chứa được ít. Tuy nhiên vấn đề quan trọng  ở chỗ đó là những bình chứa ấy  có  mở  hay đóng  mà thôi. Có mở lòng ra thì mới có thể  đón nhận được Tình Yêu  Thiên Chúa, trái lại thì không. Việc  Mở hay Đóng  suy cho cùng  tất cả  là tùy ở nơi mỗi người  theo  như  nguyên lý “ Vạn Pháp Duy Tâm Tạo”

VI/-  Thiên Chúa, Đấng Tự Hữu – Hằng Hữu 

          Trên  đường tìm kiếm, thánh Augustin có lần đã đặt  câu hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa: “ Chúa là Đấng đã tạo dựng trời và đất. Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, trong mình con có cái gì để chứa được Chúa ? Chớ gì trời và đất mà Chúa đã tạo dựng  và trong đó Chúa đã dựng nên con có chứa đựng được Chúa không ? Hay là chẳng có vật nào hiện hữu mà không bởi Chúa, nên mọi vật hiện hữu đều chứa đựng Chúa chăng ?” ( Tự Thuật ).

Đặt câu hỏi về sự hiện hữu của Thiên Chúa, đó chẳng những không phải  là điều chi bất xứng, hơn nữa  còn là điều…cần thiết. Tại sao ? Bởi vì trong lãnh vực thực hành tâm linh  nhất thiết cần  phải có… “ Nghi”.  Nghi lớn, ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ, không nghi thì không ngộ ! Nguyên nhân khiến thần học trong suốt lịch sử ngàn năm của mình không chủ trương tìm kiếm bởi ngay từ ban đầu đã đưa ra khẳng định Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa tức Logos. Đang khi đó Logos  trong triết Hy Lạp  như đã biết, thuần túy chỉ là  một trong những “ Hành Chất Sơ Bản” trong thiên nhiên vật lý.

Hỏi cũng tức là…trả lời, tuy nhiên để có thể có câu trả lời ấy thì cần  trải qua một quá trình hành  động ( Tu Tập ) lâu dài ! Trong cuộc Hành Trình Vượt Qua của Dân Chúa ra khỏi đất nô lệ Ai Cập, tiên tri Moise  trước khi nhận lãnh sứ mạng  đã đặt câu hỏi  và  được Đức Chúa Giehova đích thân trả lời: “ Này tôi sẽ đi đến  dân Itsraen  nói cùng họ rằng ĐCT của tổ phụ các ngươi  sai ta đến cùng  các ngươi  nhưng nếu họ hỏi: Tên Ngài là chi ? Thì tôi biết nói với họ làm sao ? ĐCT phán: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu, rồi Ngài lại phán: Hãy nói cho dân Itsraen như vầy: Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu  đã sai ta đến cùng các ngươi !” ( Xac 3, 13 -14 ).

Đức Chúa Giehova phán với Moise: Ta là Đấng Tự Hữu, Hằng Hữu có nghĩa Ngài …tự mình mà có chứ không bởi bất cứ nguyên nhân ngoại tại nào đồng thời luôn luôn Có, không một giây phút nào ngừng. Khẳng định sự hiện hữu của Thiên Chúa  thế nhưng vấn đề quan trọng khác không thể không được đặt ra, đó là  nếu Thiên Chúa hiện hữu thì “ Tôi” có hiện hữu không ?:

“ Vậy lạy Chúa con, con sẽ  không được hiện hữu, tuyệt đối sẽ không được hiện hữu nếu Chúa không ở trong con. Hay đúng hơn, nếu con không ở trong Chúa vì mọi sự đều bởi Người, nhờ Người và trong Người. Đúng như vậy, lạy Chúa, thật đúng như vậy. Vì con ở trong Chúa  thì con kêu cầu Chúa ở đâu ? Hay là Chúa sẽ từ đâu ngự đến trong con ? Vậy con sẽ lánh mình đi đâu  ở bên ngoài trời và đất để từ đó Chúa sẽ ngự đến trong con, Chúa là Đấng đã phán: Ta tràn ngập cả trời và đất” ( Tự Thuật ).

Những suy tư  mang tính siêu hình của thánh Augustin  về sự hiện hữu của Thiên Chúa, cuối cùng đã đưa đến  vấn đề quan trọng bậc nhất của  triết  Hy Lạp    được khắc ghi trên  cổng vào đền Delphe: “ Hãy tìm cho biết về chính mình mày” ( Connais – toi –toi-mêmes ). Việc tìm cho biết về chính mình là  hành vi hướng  nội  chỉ dành cho  những triết nhân và  thánh Augustin  đồng thời với việc tìm kiếm Thiên Chúa, ngài còn muốn biết về chính mình: “ Một cách mãnh liệt, sâu xa hơn nữa, Augustin  còn xông pha tới những giới tuyến xa xăm nhất  để một khi đụng  chạm tới chúng rồi ông mới trở về với chính mình và tự do  khám phá thấy một người khác  ở trong thẳm cung  của tâm hồn ông, vì chỉ có con đường nội tâm  nhất mới  là con đường  vắn tắt nhất dẫn đến Thiên Chúa được…

…Nhà ngươi đừng có hướng ra bên ngoài, hãy trở  lui về với chính mình vì chính trong thẩm cung  của  con người  mới có chân lý cư ngụ: Để một khi  bắt gặp được  bản tính bấp bênh của nhà ngươi rồi thì hãy cố siêu việt lên trên chính mình. Từ ngàn xưa đến nay, chưa bao giờ con người lại tỏ thái độ kinh ngạc  đến như thế  đối với thân phận của  chính mình…Thực là sâu thẳm bao la, ôi con người ! “ Chính tôi lại trở thành thắc mắc cho tôi” ( L. T. Nghiêm – LSTHTP – Q. II ).

Triết học đề ra 03 câu hỏi nhưng  đến nay vẫn chưa  thể  có câu trả lời, một là con người ta sinh ra bởi đâu ? Hai là người ta sống trên đời để làm gì và ba là con người ta chết rồi đi đâu ? Không biết được lẽ Sinh, Tử  thì cũng chẳng thể biết con người ta  sống trên đời để làm gì  và một khi đã không biết mình sống để làm gì thì  làm sao  tránh  không khỏi  sa đà vào lối sống  ích kỷ, tham lam vô độ  và rồi cuối cùng  là cái chết  trong mê mờ: “ Trong tập Dự Báo Thế Kỷ 21, một tác giả đã xót xa viết: Con người hiện đại  đang hưởng thụ một nền văn minh vật chất cao chưa từng có  trong lịch sử  thì đồng thời cũng đang bị dày vò  bởi những nỗi thống khổ mà loài người chưa từng gặp phải. Rene’ Dumond cũng đã nhận định: Loài người đang phải đối phó với một loạt những  hiểm họa lớn chưa từng có  và lần đầu tiên trong lịch sử, con người đang phải đặt lại vấn đề tồn vong của chính mình” ( Dionigi Tettamanzi & Guy Durand – Tân Đạo Đức Sinh Học Ki Tô ).

Để giải quyết bất kỳ cơn khủng hoảng nào dù là chính trị, kinh tế hay tôn giáo thì cũng cần phải biết đến nguyên nhân gây ra cho nó. Không biết được nguyên nhân mà muốn giải quyết khủng hoảng đó chỉ là ảo tưởng. Nguyên nhân sâu xa  khiến triết học không thể trả lời  được 03 câu hỏi nêu trên là vì đã có sai lầm ngay trong cách đặt câu hỏi: Thay cho “Con Người” hiểu như là ngôi thứ ba  thì phải là “  Tôi “ như là ngôi thứ nhất. Ví dụ: Thay vì  hỏi  con người sinh ra bởi đâu  thì phải là Tôi sinh ra bởi  đâu v.v…

Triết học không thể và sẽ không bao giờ có thể trả lời được 03 câu hỏi ấy  bởi vì bản chất của nó chủ về chia  chẻ , phân biệt mà triết học Kant gọi đích danh  nó là “ Cái Tôi Tưởng” tức đi từ quan niệm này đến quan niệm khác mà không lưu ý gì đến Thực Tại  tức  cái… “Bây giờ và ở đây” ( Hic et Nunc ). Với “ Cái Tôi Tưởng” ấy, triết học  sẽ không bao giờ có thể giả quyết  được vấn đề Sinh, Tử mà chỉ trong  thực hành tâm linh, tôn giáo mới có thể !

Tôn giáo có mặt là để giải quyết vấn đề  Sinh và Tử của con người  dù trong bất cứ  thời gian và không gian nào, bởi vậy nó hoàn toàn khác với triết học ở chỗ: Một đàng đặt ra những  vấn nạn, một đàng  tìm cách giải quyết cho những vấn nạn ấy qua nhiều phương thức khác nhau. Với  Đạo Chúa thì việc  giải quyết  những vấn nạn ấy  đã  được thực hiện  bằng “Con Đường Tình Yêu”:

“ Hãy xem, ngày nay Ta đặt trước mặt ngươi sự sống và phước lành; sự chết và tai họa. Vì ngày nay Ta bảo ngươi hãy yêu mến Giehova ĐCT ngươi, đi trong các đường lối Ngài  và gìn giữ những điều răn và mạng lịnh Ngài  để ngươi được sống dồi dào và Giehova ĐCT ngươi ban phước cho ngươi trong Xứ mà ngươi sẽ vào  nhận lấy. Nhưng nếu lòng ngươi phản bội không khứng nghe theo, chịu dụ dỗ, thờ lạy và hầu việc các thần khác thì ngày nay, Ta tỏ cùng các ngươi  rằng các ngươi hẳn phải tuyệt diệt  không được sống lâu  trên Đất  mà ngươi sẽ đi qua sông Gióc Đan đặng nhận lấy” ( Đnl 30, 15 -17 ).

“ Xứ” ở đây  đối với dân Do Thái cũng như những nhà chú giải Thánh Kinh xưa  nay vẫn  cho đó là miền đất Canaan. Thế nhưng đó chỉ là cách hiểu theo nghĩa mặt chữ ( Sens Litteral ) mà không biết rằng “ Xứ” ấy chính là để ám chỉ cho Bản Tâm Chân Thật của mỗi người. Nhận biết và  trở về  sống với cái Tâm Chân Thật  ( Chân Tâm ) ấy con người  sẽ được an vui, hạnh phúc, trái lại sẽ  phải  bất hạnh, khổ đau. Cũng chính vì không hiểu được  cái nghĩa mầu nhiệm của Xứ ấy mà Dân Do Thái  đã không tuân thủ giới răn Yêu Mến, lại  đang tâm bội nghịch, đến nỗi đã bị nguyền rủa, không vào được Đất Hứa như trong Di Ngôn của tiên tri Moise: “ Vì ta biết rằng, sau khi ta qua đời, các ngươi  hẳn sẽ bại hoại, phản nghịch cùng đường lối ta đã truyền dạy các ngươi; trong ngày sau rốt, tai họa sẽ xông hãm các ngươi, bởi các ngươi đã làm điều ác trước mặt Đức Giehova, lấy những  công việc của tay mình làm mà chọc giận Ngài” ( Đnl 31, 28 -29 ).

Dân Do Thái xưa trong thời Cựu Ước  chỉ vì không  nhận ra ý nghĩa chân thực của “ Xứ” nên đã đang tâm phản nghịch, còn  trong thời Tân Ước cũng vậy, thần học  hiện nay  vì  không hiểu  nên đã biến Nước Trời mầu nhiệm nội tại thành ra cái gọi là Triều Đại Thiên Chúa  với chú thích ( b ): “ Có người dịch…ở trong các ông nhưng dịch như thế  có thể  làm người ta  hiểu lầm rằng Triều Đại Thiên Chúa  chỉ là một việc nội tâm và riêng tư. Đối với Đức Giê Su, Triều Đại dành cho toàn dân Chúa và đã là  một thực tại đang  hoạt động để cứu độ loài người, các ông có thể đạt tới được” ( Kinh Thánh Tân Ước – Tòa TGM giáo phận TP HCM 1994 )

Thật ra  việc thay thế Nước Trời mầu nhiệm bằng cái gọi là Triều Đại Thiên Chúa hoàn toàn không chỉ là một…cách dịch, đó chính là  do ảnh hưởng  sai lầm của Hữu Thể Học  khiến không thể nhận ra Tin Mừng Nước Thiên Chúa của Đức Ki Tô luôn  đòi hỏi cần lòng tin và việc sám hối, ăn năn ( Mc 1, 15 ). Đang khi đó để có được lòng tin và việc sám hối ăn năn thì nhất định  phải theo Chúa, bỏ mình  tức là TU và việc tu tập ấy chỉ có thể là của mỗi  một cá nhân mang tính riêng tư chứ sao lại không?

VII. Con Đường Tình Yêu  và Con Đường Sự Thật 

          Có thể nói vấn đề Thiên Chúa hiện hữu hay không hiện hữu  đã chi phối toàn bộ sinh hoạt tư tưởng của nhân loại từ trước đến nay. Thần học Ki Tô Giáo  chứng minh  cho sự hiện hữu ấy  bằng một môn gọi là  Hữu Thể Học ( Ontologie ) với quan điểm cho rằng  bất cứ cái gì Có ( Hữu ) đều không thể không có nguyên nhân tác thành của nó  và nguyên nhân của mọi nguyên nhân  ấy được gọi là Đấng Tạo Hóa  tức Hữu Thể Tuyệt Đối !

Về cái “ Có” ấy, tiếng Pháp gọi là  “être” vừa là danh từ vừa là động từ. Nếu viết  chữ thường être thì đó ám chỉ cho một thứ hữu thể chung chung còn nếu viết chữ hoa “Être”  đó là biểu thị cho Thiên Chúa, Đấng Tạo Hóa. Dù viết chữ thường hay  chữ hoa, đó  vẫn chỉ là một thứ…văn tự, một thứ khái niệm chứ hoàn toàn không phải là Thực Tại. Với một thứ khái niệm  thì không thể nói nó hiện hữu mà nếu  hiện hữu thì nó  chỉ…hữu trong tâm trí  con người mà thôi ? Nếu hiện hữu chỉ là …hữu trong tâm trí thôi thì đó có phải là hiện hữu thực sự  hay không ? Đây là vấn  đề  đã được thánh Augustin bàn đến một cách cặn kẽ:

“ Trong quyển De Beata Vita  đồng thời với quyển  Contra Academicos  đã khai triển ra được một công  thức đầu tiên về một nền tảng bất khuất cho mọi chân lý, vượt mọi phi bác khác đối với Hoài Nghi Thuyết trong Contra Academicos. Đó là sự hiện hữu của Ngã hiểu như một sự kiện nền tảng vững chắc, bất khuất. Trong cuộc đối thoại với một người bạn tên Navigius, Augustin  chất vấn ông ta đang lúc còn do dự, nghi ngờ rằng: Anh có biết ít ra là anh đang sống không ? và Navigius trả lời: Thưa, tôi biết chứ !

…Một cách rõ rệt hơn nữa, trong quyển Soliloqucs, chứng lý trên còn đem trực giác của tư tưởng thay cho trực giác về sự sống như sau: Ngươi muốn biết ngươi, nhưng ngươi có biết rằng ngươi hiện hữu không ? Thưa tôi biết. Làm sao ngươi biết được ? Tôi không biết. Ngươi cảm thấy mình đơn nhất hay đa tạp ? Tôi không biết ! Ngươi có biết ngươi cử động không ? Tôi không biết ! Ngươi có biết ngươi tư tưởng không ? Tôi biết ! Vậy đúng là ngươi tư tưởng rồi ! Đúng thế…

…Nói tóm, theo Gilson, với hai lập luận trên , Augustin muốn chứng minh rằng: Mỗi chúng ta đều là một Ngã suy tư và sự hiện hữu của Ngã  suy tư ấy  lập tức được  thiết lập trên sự hiện hữu vững chắc của tư tưởng…

…Một câu nói khác thời danh hơn rút từ quyển De Civitate  Dei còn chứng minh điều ấy một cách quyết liệt hơn nữa rằng: Tôi có thể sai lầm bằng nhiều cách “ Nếu tôi sai lầm thì chắc chắn là tôi hiện hữu” ( L.T.Nghiêm – LSTHTP – Q.II )

Để đáp trả lại thuyết  hoài nghi đang thịnh hành thời đó, thánh Augustin tìm cách chứng minh sự hiện hữu của con người bằng một “ Cái Ngã Suy Tư” Nói rõ hơn, hễ con người có tư tưởng có nghĩ suy dù là sai lầm đi nữa thì chứng tỏ rằng nó hiện hữu chứ không phải…hư vô. Lập luận này về sau đã được Rene’ Descarte ( 1596 – 1630 ) phát biểu lại bằng câu nói nổi tiếng: “ Tôi tư tưởng. Vậy tôi tồn tại” ( Cogito ego sum ).

Lập luận con người hiện hữu bởi nó tư tưởng, điều đó quả không sai. Tuy nhiên có một nan đề cần giải quyết  đó là con người…có tư tưởng hay tư tưởng chính là người tư tưởng ? Nếu nói con người có ( sở hữu ) tư tưởng  thì lẽ ra nó phải điều khiển được tư tưởng, muốn làm thiện, tránh làm ác, muốn hạnh phúc tránh khổ đau đều được như ý ? Thế nhưng  trong thực tế thì như thánh Phao Lô nói, hoàn toàn không phải  vậy:

“ Vả, tôi biết rằng trong tôi tức trong xác thịt tôi chẳng có điều chi lương thiện vì lòng muốn thì ở nơi tôi  nhưng quyền lực làm điều thiện thì tôi lại không có. Cho nên, điều thiện tôi muốn thì tôi  không làm. Còn điều ác tôi không muốn thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn thì  thì chẳng còn phải là tôi làm  điều đó nữa  bèn là tội lỗi ở trong tôi. Vậy tôi thấy trong tôi  có luật này, khi tôi muốn làm điều thiện  thì điều ác lại cặp theo tôi. Vì theo người bề trong, tôi vẫn vui thích  luật pháp của ĐCT nhưng tôi lại thấy trong chi thể tôi có một luật khác chiến đấu với luật trong tâm trí tôi, bắt tôi làm nô lệ cho luật của tội lỗi vẫn ở trong  chi thể tôi” ( Rm 7, 18 -20 ).

Sống đời sống tôn giáo là sống  cuộc chiến tâm linh lâu dài, đầy dẫy khó khăn, trở ngại vì phải chiến đấu và chiến thắng chính cái bản ngã tham lam, ích kỷ nơi mình. Thánh Augustin  sau quãng đời ô nhục vì tội lỗi, đam mê trói buộc  đã được ơn trở lại nhờ một câu trong thư thánh Phao Lô: “ Anh em hãy mặc lấy Đức Ki Tô và đừng chiều theo tính xác thịt nữa” ( Rm 13, 14 ).

Mặc lấy Đức Ki Tô tức là vững bước trên  con đường theo Chúa  để nhận biết  Sự Thật: “ Chúa Giê Su bèn phán cùng những người Do Thái đã tin Ngài rằng: Nếu các ngươi cứ ở trong đạo Ta thì thật là môn đệ Ta. Các ngươi sẽ nhận biết sự thật và sự thật sẽ giải thoát  các ngươi” ( Ga 8, 31 -32 ). Tin theo Chúa mục đích  để nhận biết Sự Thật  và sự thật ấy  chính là mỗi người được tạo dựng nên  đều là Hình Ảnh là Con Thiên Chúa ( St 1, 26 ). Và  khi đã  nhận biết  và sống với  sự thật  Con Thiên Chúa  ở nơi  mình  sẽ được giải thoát. 

Suy cho cùng thì mục đích rốt ráo của việc Sống Đạo là để nhận biết và sống với sự thật Con Thiên Chúa ở nơi mình và để sống cuộc sống ấy  Chúa Giê Su đòi  hỏi nhất thiết cần có sự từ bỏ: “ Như vậy, hễ ai trong các ngươi không từ bỏ mọi sự mình có thì không  thể làm môn đệ Ta được” ( Lc 14, 25 ). Mọi sự mình có ở đây  không những là tài sản, danh vọng, chức quyền, đó còn là thân bằng quyến thuộc, vợ  đẹp con ngoan… những thứ  người đời  cho là  giá trị cần tìm kiếm. Thế nhưng  với thánh Augustin sau khi đã gặp gỡ  Đức Ki Tô  thì tất cả đều thay đổi:

“ Nhưng không, hãy tiêu diệt tất cả các sự đó, hãy xua đuổi các thứ  hư ảo, giả trá đó đi ! Hãy tập trung mọi nỗ lực  vào việc tìm kiếm chân lý. Đời sống đau khổ, cái chết vô định, bởi nó xảy đến bất ngờ: Tôi sẽ ra khỏi đời này trong tình trạng nào ?  Và  sẽ hỏi ở đâu điều mà tôi xao lãng ở đời này ? Hay đúng hơn, há chẳng phải là tôi sẽ bị phạt dần về sự xao lãng đó hay sao ? Nếu chính cái chết sẽ cắt đứt  và chấm dứt mọi lo nghĩ cùng với cảm thức thì sao ? Vậy phải nghiên cứu cả điều đó nữa !!!” ( Tự Thuật ).

Sống trên cõi đời này, rồi ra ai ai  cũng phải chết đó là  quy luật muôn đời không  ai tránh khỏi. Tuy nhiên điều quan trọng  không phải là…chết nhưng  chết rồi đi đâu đó mới là vấn đề ? Thật vậy, thánh Augustin khi suy tư về cái chết, ngài đã tự đặt câu hỏi mà xét ra có liên hệ với mỗi một người trong chúng ta dù là giáo sĩ hay giáo dân đó là “ Cái chết vô định, nó xảy đến bất ngờ và tôi sẽ ra khỏi đời này trong tình trạng nào ?”

Con người ta sinh ra là để…chết, đó là  sự thật muôn  đời. Thế nhưng lại chẳng mấy ai để tâm vào việc  vô cùng  quan hệ ấy đến nỗi  cứ sống như thể  mình không bao giờ chết  hoặc có khi lại  đặt lòng tin mù quáng vào một đấng Thiên Chúa nhân lành  chẳng  bao giờ… nỡ phạt con cái dù chúng có phạm tội lỗi gì đi nữa ? Thiên Chúa quả thật là Đấng nhân lành hay thương xót thế nhưng  nên nhớ Ngài cũng là Đấng công thẳng vô cùng:

“ Vậy nên, phải nhận biết rằng Giehova ĐCT ngươi  ấy là ĐCT thành tín, giữ sự giao ước  nhân từ đến ngàn đời  cho những ai yêu mến Ngài, vâng giữ các giới răn của Ngài  và Ngài  báo ứng nhãn tiền cho những kẻ nào ghét bỏ Ngài  mà hủy diệt chúng nó đi. Ngài không trì hoãn cùng  kẻ nào ghét bỏ Ngài đâu sẽ báo ứng nhãn tiền cho kẻ đó” ( Đnl 7, 9 -10 ).

Tôn giáo  không phải là triết học, đồng hóa tôn giáo với triết học là một lầm lẫn  vô cùng  tai hại mà hậu quả  không thể tránh đó là vướng vào Con Đường Tục Hóa như hiện nay đang thấy ! Với Tục Hóa thì  Con Đường Tình Yêu chẳng còn nghĩa lý  gì nữa. Tại sao ? Bởi vì Con Đường Tình Yêu ấy như trên vừa trích dẫn đó là thực thi Luật Nhân Quả: Yêu mến Thiên Chúa thì sống, trái lại  ghét bỏ Ngài sẽ  bị tiêu diệt.

Đấng Thiên Chúa mà ta cần  hết lòng yêu mến  chỉ có thể  là Đấng Cha nội tại  trong mỗi người do Đức Giê Su  Ki Tô  mạc khải. Tin Thiên Chúa thực hữu đó là điều kiện cần cho những ai muốn tìm kiếm nhưng lòng tin ấy chưa đủ,  còn phải hết lòng tìm  và  trên con đường tìm kiếm ấy, có một phương thế  vừa bảo đảm  lại vừa  dễ dàng đó là Tràng Chuỗi Mân Côi. Sở dĩ Kinh Mân Côi có thể đáp ứng  hai điều ấy  là do lời hứa của Đức Mẹ cho thánh Đa Minh. Trong 15 lời hứa ấy  lời nào cũng  rất  đáng trọng nhưng theo tôi  đó là lời hứa thứ tám: “ Đối với những ai siêng năng lần  Chuỗi Mân Côi, sẽ được ánh sáng Chúa chiếu soi đời này và nhất là trong giờ chết và đầy tràn ơn sủng của Ngài. Sau khi chết, sẽ được hợp đoàn cùng chư thần thánh trên nơi vĩnh phúc” ( TS Trần Mỹ Duyệt chuyển ngữ ).

Có được Lời Chúa sáng soi  trong giờ phút  lâm chung hấp hối là điều vô cùng cần thiết. Thế nhưng  làm sao để trong giờ phút  ấy  có được ơn soi sáng là điều không hề  dễ nếu trong lúc bình thời không tỉnh thức  cầu nguyện ?: “ Vì ngươi đã  giữ đạo của sự nhẫn nại Ta. Ta cũng sẽ  gìn giữ ngươi  khỏi giờ thử thách  là giờ sắp đến  trong khắp thiên hạ để thử thách những người trên mặt đất. Ta đến mau chóng, hãy giữ vững điều ngươi đã có, hầu  chẳng ai có thể đoạt lấy mão miện của ngươi” ( Kh 3, 10 -11 )./.

Phùng  Văn  Hóa

( Viết xong tại Trà Cổ – Đồng Nai – Mùa Giáng Sinh 2025 ).

           

 

 

         

 

         

         

Chia sẻ Bài này:

Related posts